Giới thiệu làng nghề mây tre đan Phú Vinh
Trong quá trình phát triển của làng nghề thủ công truyền thống và ngành nghề thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam, lĩnh vực sản xuất mây tre đan chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Trong số các làng nghề mây tre đan ở Hà Nội, làng Phú Vinh ở xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ là một điển hình. Làng nằm dọc theo quốc lộ 6A, là con đường nối liền Hà Nội với các tỉnh miền núi phía Bắc. Nó cách trung tâm huyện Chương Mỹ 5km và cách trung tâm Hà Nội 27km theo hướng Tây Nam.
Nghề mây tre đan ở làng Phú Vinh có một lịch sử phát triển lâu đời và gắn liền với đời sống của người dân nơi đây. Mặc dù không thể xác định chính xác từ bao giờ nghề mây tre đan đã xuất hiện ở địa phương này, nhưng các nhà nghiên cứu đã khảo sát và cho rằng sản phẩm mây tre đan của làng Phú Vinh đã tồn tại trong khoảng thời gian trên 400 năm.
Làng Phú Vinh nằm tại vùng đất bán Sơn, gồm 4 xóm là xóm Thượng, xóm Hạ, xóm Gò Đậu và xóm Đầm Bung. Ban đầu, đình làng Phú Vinh được xây dựng trên khu vực Gò Cầu Gộng, cách làng Phú Vinh hiện nay khoảng 1km. Làng Phú vinh thuộc vùng bán Sơn địa, với đồng chiêm trũng rộng lớn và vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 8 âm lịch), nước mưa ngập tràn, làm chìm chân tre. Các xóm và đình làng bị cắt đứt và việc di chuyển giữa các xóm trở nên khó khăn. Từ tình hình đi lại khó khăn này, người dân trong làng đã tìm cách tận dụng tre đan để chế tạo thành các thúng và thuyền, làm phương tiện di chuyển trong mùa mưa.
Nghề mây tre đan ở Phú Vinh đã từ đó hình thành và phát triển. Người dân trong làng đã vượt qua khó khăn của địa hình và tận dụng tài năng và kỹ thuật đan của mình để sáng tạo ra các sản phẩm từ mây và tre. Nghề mây tre đan trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống và văn hóa của người dân Phú Vinh. Công nghệ đan mây và tre đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, và đến nay, làng Phú Vinh vẫn tiếp tục duy trì và phát triển nghề truyền thống này, đồng thời làm tăng giá trị văn hóa và kinh tế địa phương. Không những thế, nghề mây tre đan đã lan rộng sang các làng xã khác trong vùng và đã phát triển đến hơn 20 tỉnh thành trên toàn quốc.
Lịch sử phát triển làng nghề mây tre đan Phú Vinh
Người Phú Vinh cha truyền con nối làm nghề đan mây tre và hầu như mọi hộ gia đình ở đây đều có người tham gia vào nghề này, bao gồm cả thanh niên trai tráng, phụ nữ và người già, trẻ nhỏ. Trước đây, sản phẩm từ mây tre đan chủ yếu được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày như thúng, mủng, dần, sàng, túi, hộp… Tuy nhiên, ngày nay đã có sự sáng tạo với hàng trăm mẫu hàng xuất khẩu như đĩa mây, lẵng mây, làn mây, chậu mây, bát mây; cùng các sản phẩm mỹ nghệ như đồ trang trí, chao đèn, rèm cửa, tranh chân dung, phong cảnh, hoành phi, câu đối, bàn, ghế, sa lông; và đồ nội thất cho khách sạn, nhà hàng làm bằng tre trúc.
Hiện nay, xã Phú Nghĩa đã hình thành 16 doanh nghiệp và tổ hợp sản xuất kinh doanh các sản phẩm mây tre đan xuất khẩu. Trong số này, có 9 doanh nghiệp tập trung kinh doanh tại Khu công nghiệp Phú Nghĩa được quy hoạch, còn lại là các doanh nghiệp và tổ hợp sản xuất nhỏ trong các hộ gia đình. Sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp này là điều cần thiết để đưa những tác phẩm nổi tiếng từ mây tre đan của Phú Vinh đến người tiêu dùng trên khắp các châu lục.
Trong số các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu mây tre đan mạnh nhất tại Phú Vinh, không thể không kể đến Công ty TNHH Đoàn Kết 1. Công ty này đã phát triển từ mô hình sản xuất gia đình và từng bước trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu mây tre đan, thủ công mỹ nghệ. Hiện có 3 cơ sở sản xuất với tổng diện tích gần 20.000 m2 nhà xưởng, thu hút gần 200 công nhân trực tiếp tại các cơ sở và hàng trăm công nhân thời vụ tại các cơ sở vệ tinh và hộ gia đình. Công ty đã đóng góp vào cải thiện thu nhập, giảm nghèo và xóa đói cho bà con trong các khu vực nông nghiệp và nông thôn. Thu nhập bình quân của nhân viên công ty là 1,8 triệu đồng/người/tháng. Các doanh nghiệp mây tre đan có tiếp cận nguồn vốn tín dụng và hỗ trợ từ ngân hàng để phát triển thị trường và xúc tiến thương mại tại các thị trường quan trọng. Đồng thời, họ cũng nhận được hỗ trợ tài chính, thiết bị và thông tin liên quan đến thị trường và sản phẩm mây tre đan trên toàn cầu. Điều này tạo sức mạnh liên kết giữa nhà nước, doanh nghiệp và người nông dân để đưa xuất khẩu mây tre đan của Việt Nam lên một tầm cao mới, góp phần tôn vinh những giá trị truyền thống của làng nghề và tạo việc làm cho nhiều người nông dân trong nông thôn. Đây cũng là mục tiêu quan trọng mà Đảng và Nhà nước quan tâm trong việc giải quyết vấn đề Tam nông.
Với hơn 400 hộ gia đình tham gia nghề mây tre đan vào năm 2002, Phú Vinh đã được công nhận là làng nghề truyền thống trong lĩnh vực này. Các khu xóm như Thượng, Hạ, Đầm Bung, và Gò Đậu không chỉ là điểm đến mà còn là điểm dừng chân cho những du khách muốn trải nghiệm làng nghề hoặc yêu thích các sản phẩm từ mây, tre và giang đan.
Vào thời kỳ vua Thành Thái, làng nghề truyền thống Phú Vinh đã có 09 cụ nghệ nhân được nhà vua tôn sắc. Như thường lệ, những nghệ nhân cao tuổi, tài hoa, đam mê nghề nghiệp đã truyền kỹ năng cho thế hệ sau và đưa thương hiệu nghề đan mây Phú Vinh phát triển lên tầm cao mới. Câu lạc bộ Nghệ nhân Phú Vinh được thành lập vào năm 2007, quy tụ 19 nghệ nhân và thợ giỏi, với thành viên lớn tuổi nhất là 85 tuổi và trẻ nhất là 25 tuổi. Mục tiêu chính của câu lạc bộ là tập hợp những nghệ nhân và thợ giỏi, tạo sự đoàn kết và phát huy tài năng nghệ thuật của mình để bảo tồn và bảo vệ nghề truyền thống, sáng tạo ra nhiều mẫu mã đẹp và các tác phẩm mới, đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới trong quá trình hội nhập hiện nay.
Trong làng nghề Phú Vinh, không ai không biết đến tên tuổi của cụ nghệ nhân Nguyễn Văn Khiếu (1905 – 1983). Cụ Khiếu, người làng Phú Vinh, sở hữu đôi bàn tay khéo léo độc đáo. Ông là nghệ nhân thành công đầu tiên trong việc đan chân dung Bác Hồ bằng mây truyền thống. Trong cuộc đời, cụ Khiếu đã từng nói: “Nghề đan mây – một nghề cho ra nghề quả là khó nên chỉ được gọi là thành công khi làm được ra những sản phẩm mỹ nghệ có hồn. Khi ta đang cầm sợi mây đan, ta chợt thấy chim vồ cánh bay, càng ngắm càng thấy chim bay cao dần. Tết hoa cũng vậy, làm sao để người ngắm mà thấy hoa nở tươi hơn, duyên dáng hơn”.
Sử dụng mây và tre để tạo ra những tác phẩm đã là công việc khó khăn, nhưng việc sử dụng chúng để mô tả phong cách và dáng điệu của con người lại càng khó hơn. Trong khi các họa sĩ có thể sử dụng đến 7 màu cơ bản để thể hiện tác phẩm của mình, nghệ nhân đan mây chỉ có thể sử dụng 2 màu: đen và trắng. Màu đen được tạo ra từ nước quả bàng, còn màu trắng là màu tự nhiên của dây mây. Với hai màu này, nghệ nhân phải nghiên cứu, tính toán để tạo ra tác phẩm thể hiện tinh thần của nó. Tạo ra cảnh quan có thể được chấp nhận, nhưng tạo ra chân dung con người vừa đẹp vừa giống là điều vô cùng khó khăn. Nếu đẹp nhưng không giống, hoặc giống nhưng không đẹp, thì cũng vô ích.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Khiếu đã thành công trong việc đan mây để tạo ra cảnh quan và chân dung con người, và con trai ông là nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh đã đạt thành công đáng kể trong lĩnh vực nội thất mây tre đan. Ông Tĩnh tiếp tục nối nghiệp cha mình và hàng ngày giữ gìn những tinh hoa và trải nghiệm của ông như một kho báu. Con trai của ông Tĩnh, Nguyễn Văn Quang, 22 tuổi, sau khi gia nhập quân đội vào năm 2004, đã trở về sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự vào đầu năm 2007 để tiếp tục công việc của cha. Tác phẩm đầu tay của anh Quang là một chiếc lọ lục bình cao 4,1m, được công nhận là kỷ lục Việt Nam trong Hội hoa năm 2009. Anh đã hoàn thành công trình này với hình ảnh bốn điểm nhấn bao gồm Chùa Một Cột, Khuê Văn Các, Tháp Rùa và Rồng thời Lý đang bay lên trên bề mặt lục bình. Đây là một công trình do Quang thiết kế, và anh trai của Quang, Nguyễn Văn Bình, đã làm cốt và cả gia đình cùng nhau khởi công đan từ ngày 10/10/2007. Với gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh, công trình này mang giá trị tinh thần vô cùng quý báu và không thể định giá bằng tiền bạc. Đây cũng là tác phẩm đầu tay của cháu nội cố nghệ nhân Khiếu, và được dành dâng tặng Đại lễ ngàn năm Thăng Long – Hà Nội.
Tiếp nối lớp nghệ nhân lão làng, anh Hoàng Văn Hạnh và chị Nguyễn Thị Hân là những người đầu tiên có sáng kiến độc đáo khi kết hợp tinh hoa của hai làng nghề gốm Bát Tràng và mây tre đan Phú Vinh để tạo ra một loại sản phẩm mỹ nghệ mới – gốm sứ quấn mây. Ý tưởng này đã được anh Hạnh ấp ủ từ nhiều năm trước, trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, khi nghề mây tre đan ở Phú Vinh gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm. Người dân địa phương phải đi làm hàng chợ như rổ, rá để kiếm sống. Với lòng xót xa và trăn trở về việc bảo tồn nghề, anh Hạnh đã đi tìm thị trường ở Đồng Nai và TP. HCM. Tại đây, anh đã nảy ra ý tưởng kết hợp sợi mây và sợi giang với gốm sứ Bình Dương, và ý tưởng này được khách nước ngoài, đặc biệt là du khách Pháp, đón nhận nồng nhiệt. Sau 4 năm gắn bó với đất khách, anh trở về miền Bắc và tìm thấy trong gốm Bát Tràng các tông màu phù hợp với màu trắng ngà và màu sẫm của mây Phú Vinh, tạo ra những mảng sáng tối đặc biệt cho các sản phẩm.
Phát hiện của anh đã được bàn tay khéo léo của chị Nguyễn Thị Hân thêm phần tinh tế với những kiểu dáng độc đáo. Các sản phẩm gốm sứ quấn mây của anh chị bao gồm gần 60 kiểu dáng khác nhau, nổi bật bởi tính độc đáo, và đã giành được nhiều huy chương vàng trong các hội chợ và triển lãm.
Sau thời kỳ hòa bình, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, các nghệ nhân tại làng nghề Phú Vinh đã không ngần ngại chia sẻ nghề, đi khắp nơi truyền nghề cho nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh. Ví dụ, cụ Trần Văn Rắn đã đi truyền nghề ở Hà Nam, cụ Ngô Văn Phàn và Trần Thị Chuyện đã đi truyền nghề cho tỉnh Thái Bình, và nhiều nghệ nhân khác đã đi truyền nghề cho nhiều địa phương khác trong cả nước. Cho đến nay, các lớp nghệ nhân ở làng nghề Phú Vinh đã truyền nghề cho tất cả 12 tỉnh, thành phố trên toàn quốc, giúp học và duy trì nghề mây tre đan. Hiện nay, nhiều thế hệ nghệ nhân như Nguyễn Văn Khiếu, Nguyễn Văn Kinh, Nguyễn Văn Kiệu, Hoàng Văn Khu… dù đã ra đi, nhưng những tác phẩm đạt giải quốc tế vẫn ghi danh và lưu truyền tên tuổi của những người đi trước.
Khi nhắc đến việc truyền nghề ra nước ngoài, không thể không kể đến nghệ nhân Nguyễn Văn Trung. Năm 1980, ông đã được tặng giải “Tuổi trẻ sáng tạo” tại Liên Xô và trở thành giảng viên mây tre tại trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội. Nhờ tài năng của mình, ông được Ủy ban Khoa học Nhà nước và Bộ Đại học cử sang Cộng hòa Cuba làm chuyên gia giảng dạy về làm hàng thủ công mỹ nghệ. Trong 4 năm đảm nhận nhiệm vụ (1982 – 1987), ông Trung đã xây dựng và đào tạo một xưởng nghề cho nước bạn, tạo công ăn việc làm cho 300 công nhân. Trước khi trở về nước vào năm 1987, ông đã tặng nhân dân Cuba bức chân dung của lãnh tụ Phi-đen Ca-xtơ-rô được làm bằng chất liệu mây.
Năm 2007, ông thành lập Trung Tâm Dạy Nghề Tư Thục Mây Tre Đan Phú Vinh, được UBND Thành phố phê chuẩn. Trung tâm đào tạo đã giúp 4.300 lao động ở Hà Nội và các tỉnh khác như Hòa Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Hà Giang, Nam Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ông cũng đã đào tạo cho 600 lao động ở nhiều địa phương khác trong các tỉnh thành. Trong số đó, có 320 lao động là hội viên hội nông dân, bao gồm các xã như Nam Phương Tiến, Tân Tiến, Phú Nghĩa, Đông Phương Yên, Quảng Bị, Hoàng Diệu. Sau khi hoàn thành khóa học, 65% học viên đã tìm được việc làm ổn định tại các công ty. Ngoài công việc của công ty, ông dành thời gian và tâm huyết để đào tạo đội ngũ thợ trẻ. Ông cũng thường xuyên tổ chức các khóa học dạy nghề và tạo công ăn việc làm cho người khuyết tật. Đặc biệt, ông mở 22 lớp dạy nghề miễn phí cho hơn 600 người khuyết tật (chi phí mỗi lớp khoảng 50 triệu đồng). Một mặt ông đào tạo và dạy nghề cho người khuyết tật, mặt khác ông mua hàng từ những người khuyết tật mà không lấy lợi nhuận.
Với tài năng và những đóng góp của mình, ông đã nhận được nhiều bằng khen, giấy khen và chứng chỉ quốc gia và quốc tế. Ông được Hiệp hội làng nghề Việt Nam phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân làng nghề năm 2005”, UBND Tỉnh Hà Tây tặng danh hiệu “Nghệ nhân Hà Tây năm 2006”, UBND TP Hà Nội tặng danh hiệu “Nghệ nhân dân gian 2009”. Ông cũng đã được nhiều lãnh đạo cấp cao của Nhà nước đến thăm và động viên. Năm 2015, UBND TP Hà Nội tặng ông bằng khen là một trong những người tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước ngành Công Thương. Sự cống hiến và tình yêu nghề nghiệp của ông là một tấm gương sáng cho thế hệ ngày nay.
Du lịch làng nghề Phú Vinh
Làng nghề Phú Vinh có một lịch sử lâu đời và là nơi duy trì và phát triển nghề mây tre đan truyền thống của Việt Nam. Khi đến đây, du khách có cơ hội tìm hiểu về văn hóa, phong tục truyền thống của người dân địa phương và chứng kiến quy trình làm mây tre đan truyền thống.
Ngoài ra, du khách còn có thể tham quan các xưởng sản xuất mây tre đan và chứng kiến quá trình làm ra những tác phẩm tinh xảo từ mây tre. Tại đây, du khách sẽ được tìm hiểu về kỹ thuật và công đoạn làm mây tre đan từ những nghệ nhân tài ba. Điều này sẽ mang lại cho khách du lịch một trải nghiệm thú vị và hiểu hơn về công việc và sự cống hiến của những người làm nghề.
Bên cạnh đó, tại làng nghề Phú Vinh, du khách cũng có thể mua sắm các sản phẩm từ mây tre đan như túi xách, nón, đồ trang trí và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác. Bạn có thể giao lưu với người dân địa phương, trò chuyện và học hỏi từ những người làm nghề tại đây, được chia sẻ và trao đổi kiến thức về nghề mây tre đan cũng như tìm hiểu về cuộc sống và truyền thống của người dân địa phương. Không những thế, bạn còn có thể tận hưởng trải nghiệm tạo ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ riêng cho mình hoặc tặng cho người thân.
Lễ hội và nghệ thuật biểu diễn
Lễ hội lớn nhất hàng năm của làng Phú Vinh diễn ra vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch, được chuẩn bị kỹ lưỡng bởi ban khánh tiết người dân trong nhiều tuần trước đó. Theo lãnh đạo xã và người dân thì cứ năm năm lại có một lần rước lễ từ đầu làng đến cuối làng, tạo nên không khí vui tươi và phấn khởi trong cộng đồng.
Theo các cụ già trong làng, lễ hội có những hoạt động truyền thống như hát dô, hát quan họ và chọi gà. Ngoài ra, trò chơi nấu cơm thi cũng là một điểm nhấn đặc biệt của lễ hội. Các đội thi, gồm ba người mỗi đội, được thời gian 20 phút để nấu chín cơm. Một người đi vừa gánh hai niêu và hai người đốt lửa, cùng nhau đảm bảo cơm chín hoàn hảo. Trò chơi này yêu cầu sự khéo léo và sự đồng đội của các thành viên trong đội.
Ngoài ra, còn có Lễ hội truyền thống làng Phú Vinh. Lễ hội này diễn ra vào trung tuần tháng 7 âm lịch hàng năm. Bên cạnh các hoạt động tế lễ và rước kiệu, lễ hội còn tổ chức hàng loạt các trò chơi dân gian thú vị như đánh gậy, đánh cờ người, đập niêu, leo cầu đốt pháo, bịt mắt bắt dê, bắt vịt ao đình, mút mật, đua thuyền và nhiều hoạt động khác. Lễ hội này là dịp để du khách tham gia vào không gian vui tươi, tận hưởng niềm vui và khám phá văn hóa độc đáo của làng Phú Vinh.
Lễ hội làng Phú Vinh không chỉ là dịp để cộng đồng địa phương giao lưu và kết nối với nhau mà còn thu hút nhiều du khách tham gia và trải nghiệm. Nó cũng là cơ hội để tôn vinh và bảo tồn các giá trị văn hóa, truyền thống của địa phương, đồng thời thể hiện sự đoàn kết và sự gắn bó của người dân trong cộng đồng. Lễ hội này góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ tiếp nối về những giá trị văn hóa truyền thống của làng Phú Vinh.
Ẩm thực làng nghề Phú Vinh
Làng nghề Phú Vinh không chỉ nổi tiếng với các sản phẩm thủ công mây tre đan, các lễ hội mà còn có những món ăn đặc sản độc đáo, hấp dẫn du khách. Đặc biệt, món bánh cuốn và bánh đúc lạc là hai món ăn đặc trưng của làng nghề này.
Món bánh cuốn làng Phú Vinh là một món ăn được nhiều người yêu thích. Được chế biến từ bột gạo và thịt lợn, bánh cuốn làng Phú Vinh có hương vị đậm đà, bùi bùi và ăn rất ngon. Nguyên liệu đơn giản nhưng cách chế biến độc đáo và kỹ thuật cuốn bánh khéo léo tạo nên sự đặc biệt cho món ăn này. Bánh cuốn làng Phú Vinh được nhiều người dân trong và ngoài làng, cũng như du khách đến tham quan, yêu thích và tìm đến thưởng thức.
Ngoài ra, chợ Chuông là nơi bạn có thể thưởng thức món bánh đúc lạc, một món ăn dân dã gắn bó với cuộc sống của người nông dân. Món bánh đúc lạc được chế biến từ bột gạo nếp, kèm với đậu phụng rang và nước mắm chua ngọt. Món ăn này không chỉ ngon mà còn rất đơn giản và dễ làm. Bánh đúc lạc mang đến hương vị thơm ngon của gạo nếp, hòa quyện với vị bùi của đậu phụng rang, tạo thành một hài hòa độc đáo. Đây là một món ăn phổ biến và thường được bày bán trong các phiên chợ ở làng Phú Vinh.
Thưởng thức ẩm thực làng nghề Phú Vinh sẽ mang lại cho du khách trải nghiệm văn hóa ẩm thực độc đáo và khám phá hương vị tinh tế của làng quê Việt Nam. Bánh cuốn và bánh đúc lạc là những món ăn không chỉ ngon miệng mà còn thể hiện sự đơn giản, chân chất và sự tận hưởng văn hóa đời sống của người dân địa phương.
Những điểm tham quan khác gần làng mây tre đan Phú Vinh
Ngoài những cơ sở sản xuất mây tre đan truyền thống, du khách có thể dành thời gian để khám phá các địa điểm thú vị khác trong khu vực làng nghề Phú Vinh. Dưới đây là một số địa điểm đáng chú ý:
- Chùa Đồng Trữ
Nằm ở phía nam của xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, Chùa Đồng Trữ mang nét đặc biệt trong sự đơn sơ và nhỏ bé của kiến trúc. Ngôi chùa được xây dựng trong không gian xanh mát của cây cối, tạo nên một vẻ đẹp thanh tịnh và yên bình. Điều này tạo cho du khách cảm giác thư thái và hòa mình vào không gian tĩnh lặng của chùa.
- Chùa Cổ Ngỗng
Tọa lạc tại Xóm Thượng, thôn Phú Vinh, xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Chùa Cổ Ngỗng mang đậm nét đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam. Ngoài vẻ đẹp truyền thống, chùa Cổ Ngỗng đã được trùng tu lại và trở nên khang trang, thu hút hàng loạt du khách thập phương đến dâng hương và ngắm cảnh.
- Đình, quán thôn Phú Vinh
Đây là một trong 8 di tích được xếp hạng di tích lịch sử tại thôn Phú Nghĩa. Địa điểm này không chỉ có những di sản phi vật thể có giá trị cao như nghề truyền thống làm nón lá, mà còn về ẩm thực, lễ hội, thơ ca và gắn bó mật thiết với nét đẹp sinh hoạt bình dị của dân làng. Đến đây, du khách có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về văn hóa và truyền thống của người dân địa phương.
Điểm đặc biệt của làng nghề Phú Vinh không chỉ nằm ở việc sản xuất mây tre đan truyền thống mà còn trong việc giữ gìn và truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống. Bằng cách khám phá các địa điểm và tham gia vào các hoạt động văn hóa tại làng nghề này, du khách sẽ có cơ hội hiểu sâu hơn về cuộc sống và con người ở vùng quê Việt Nam.
Để lại bình luận