Theo thống kê từ Bộ Công Thương, sản phẩm mây tre Việt Nam đã được xuất khẩu tới hơn 120 quốc gia trên toàn thế giới. Trong đó, thị trường Mỹ và Nhật Bản là hai thị trường lớn nhất với thị phần lần lượt là trên 19% và gần 17%. Tuy nhiên, mặc dù đã đạt được thành công tại các thị trường này, nhưng kim ngạch xuất khẩu mây tre của Việt Nam hiện chỉ chiếm dưới 3% thị trường toàn cầu.
Những số liệu này cho thấy sự thành công của sản phẩm mây tre Việt Nam tại các thị trường quốc tế và cũng đồng thời chỉ ra tiềm năng lớn để phát triển thêm. Mặc dù thị phần của Việt Nam ở Mỹ và Nhật Bản là khá ấn tượng, nhưng vẫn còn nhiều cơ hội để các nhà xuất khẩu mây tre của Việt Nam mở rộng thị trường sang các quốc gia khác.
Một trong những cách để phát triển thêm thị trường có thể là tập trung vào nâng cao chất lượng và giá trị của sản phẩm mây tre Việt Nam. Bằng cách đầu tư vào thiết kế, kỹ thuật sản xuất và marketing, các công ty Việt Nam có thể tạo ra sự khác biệt với các đối thủ cạnh tranh và tạo nên hình ảnh cao cấp cho sản phẩm của mình. Điều này có thể giúp tăng nhu cầu và cho phép họ chiếm được một phần thị phần lớn hơn trên thị trường toàn cầu.
Ngoài ra, các nhà xuất khẩu mây tre Việt Nam cũng có thể khám phá các thị trường mới ngoài Mỹ và Nhật Bản. Trong khi hai thị trường này là rất quan trọng, nhưng cũng có nhiều quốc gia khác đang có nhu cầu về sản phẩm mây tre chất lượng cao. Bằng cách xác định và nhắm đến các thị trường này, các công ty Việt Nam có thể đa dạng hóa cơ sở khách hàng và giảm sự phụ thuộc vào một thị trường duy nhất.
Chưa có thương hiệu chung
Ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, đã thông tin rằng cả nước hiện có tới 713 làng nghề mây tre đan, chiếm 24% trong tổng số làng nghề thủ công mỹ nghệ, thu hút khoảng 350 nghìn lao động.
Tuy nhiên, từ năm 2009 đến nay, các làng nghề mây tre nổi tiếng như Phú Nghĩa, nón Chuông, làng Vát, Chàng Sơn, Phú Túc, nón Huế… đã gặp rất nhiều khó khăn do thị trường bấp bênh, nguồn nguyên liệu không ổn định, sản xuất cầm chừng.
Điều đáng buồn là sản phẩm mây tre Việt Nam thường rườm rà, nhiều chi tiết và lắm góc cạnh, uốn lượn…khó bán được tại các thị trường phát triển khi người tiêu dùng ưa chuộng những sản phẩm đơn giản, có tính hình khối. Điều này khiến cho khó có thị trường bền vững cho sản phẩm mây tre Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ta cũng chưa xây dựng được thương hiệu chung cho các sản phẩm tre Việt Nam.
Theo thông tin từ các nguồn tin, trên 80% các cơ sở sản xuất trong ngành mây tre đan không có đủ vốn để đổi mới kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất. Hầu hết các cơ sở này đều sử dụng công nghệ và thiết bị lạc hậu, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp, thiếu đa dạng về mẫu mã, dẫn đến hạn chế sức cạnh tranh trên cả thị trường trong nước lẫn xuất khẩu.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Mạnh Dũng, Trưởng Phòng Chế biến, Cục Chế biến thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NNPTNT) cho biết rằng, từ mây và tre có thể chế biến được hàng trăm loại sản phẩm khác nhau phục vụ cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Cụ thể, những vật liệu này có thể sản xuất thành 2 nhóm hàng lớn, bao gồm các sản phẩm truyền thống như măng tre làm thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, mành, chiếu, tăm, giấy và các sản phẩm mới như tre ép làm ván sàn và đồ nội thất, tre ép phục vụ xây dựng, làm than hoạt tính, làm sợi,… Trong đó, các sản phẩm chế biến công nghiệp từ tre như tre ép khối và đặc biệt là tấm lót đường từ tre mặc dù mới được nghiên cứu và đưa vào sản xuất nhưng đã có một vị thế đầy tiềm năng ở cả thị trường trong nước lẫn ngoài nước, với giá trị gia tăng rất cao.
Phát triển nguyên liệu và thương hiệu
Theo ông Nguyễn Trọng Thừa, Cục trưởng Cục Chế biến thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối, hiện tại cả nước đang có khoảng 1,4 triệu ha tre, trong đó chỉ có khoảng 6% diện tích là rừng trồng, còn lại là rừng tự nhiên. Các tỉnh có trữ lượng tre lớn tập trung chủ yếu ở Thanh Hóa, Lâm Đồng, Kon Tum, Nghệ An, Tuyên Quang, Đắk Nông, Bình Phước, Lai Châu, Sơn La và Yên Bái.
Hàng năm, lượng tre nứa tiêu thụ của Việt Nam đạt khoảng 400-500 triệu cây, được sử dụng cho các mục đích khác nhau. Việc sử dụng các nguồn tài nguyên tre hiệu quả sẽ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, đồng thời tạo ra cơ hội để tăng cường sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm từ tre. Do đó, cần có sự quản lý chặt chẽ để đảm bảo bền vững nguồn tài nguyên rừng và sử dụng các sản phẩm tre một cách hiệu quả và tiết kiệm.
Sau cuộc điều tra thực địa tại 28 tỉnh trên toàn quốc, ước tính nguồn tài nguyên song mây tại Việt Nam có tổng diện tích lên đến 381.936 ha. Trong đó, vùng Bắc Trung Bộ có diện tích song mây nhiều nhất, lên tới 201.076 ha, sau đó đến vùng Nam Trung Bộ với diện tích lên đến 180.270 ha. Sản lượng song mây có thể thu hoạch được trong cả nước khoảng 36.510 tấn/năm, trong khi nhu cầu tiêu thụ thực tế là khoảng 70.000 tấn/năm. Điều này có nghĩa là mỗi năm, chúng ta phải nhập khẩu trên 33.000 tấn mây.
Cây tre nứa và song mây là những loài cây lâm sản ngoài gỗ có khả năng gây trồng thành vùng nguyên liệu chuyên canh hoặc bảo tồn khai thác bền vững. So với các loài cây gỗ, tre nứa có nhiều ưu điểm nổi trội, đặc biệt là tốc độ sinh trưởng rất nhanh, chỉ sau 3-4 năm là có thể khai thác được và năng suất cao, khoảng từ 4-12 tấn/ha/năm. Luân kỳ khai thác của rừng tre, nứa rất ngắn, từ 2-3 năm.
Từ đó, phát triển ngành công nghiệp chế biến tre nứa, song mây sẽ giúp tăng cường sử dụng tài nguyên rừng một cách hiệu quả, giảm thiểu việc phải nhập khẩu và tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, cũng cần có sự quản lý chặt chẽ để đảm bảo bền vững nguồn tài nguyên rừng và phát triển ngành công nghiệp chế biến một cách bền vững và có lợi cho các cộng đồng và môi trường.
Từ nay đến năm 2020 và 2030, với đòi hỏi từ thị trường, cơ cấu sản phẩm của ngành chế biến tre nên là 30% cho các sản phẩm truyền thống và 70% sản phẩm cho các sản phẩm mới.
Ông Dũng bày tỏ: “Các sản phẩm tre ép khối thay thế gỗ trong sản xuất đồ nội thất ngày càng được ưa chuộng, vì có độ bền đẹp không thua gỗ, nhưng giá bán lại rẻ hơn rất nhiều. Song trên thị trường toàn cầu, các sản phẩm đồ nội thất chế biến từ tre chỉ chiếm 3% trong tổng số 100 tỷ USD của thị trường đồ nội thất. Việt Nam cần hướng vào dòng sản phẩm mới này. Nếu có chiến lược và cơ cấu sản phẩm hợp lý, chúng ta có khả năng chiếm được 8-10% thị trường thế giới, thì ngành chế biến mây tre Việt Nam sẽ vươn tới 1 tỷ USD trong tương lai”.
Kết luận
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp mây tre đan của Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia sản xuất mây tre khác trên thế giới, cùng với sự thiếu hụt các sản phẩm đa dạng, chất lượng cao và có giá cả cạnh tranh, ngành công nghiệp mây tre đan của Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức.
Mặc dù đã xuất khẩu được đến hơn 120 quốc gia trên thế giới, thị trường Mỹ và Nhật Bản vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất về lượng mây tre đan xuất khẩu từ Việt Nam. Tuy nhiên, với chỉ chiếm chưa đến 3% thị trường thế giới, vẫn còn rất nhiều khoảng trống trong nhu cầu các sản phẩm mây tre đan trên thế giới.
Do đó, việc tăng cường năng lực cho doanh nghiệp trong ngành hàng này là rất cần thiết, để đáp ứng được các yêu cầu của thị trường quốc tế và nâng cao độ cạnh tranh cho ngành công nghiệp mây tre đan của Việt Nam. Đồng thời, cần phải tiến tới liên kết tạo thương hiệu mây tre đan Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm chất lượng cao và đa dạng hơn, để có thể tiến thẳng vào khoảng trống về cầu các sản phẩm mây tre của thế giới.
Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ sản xuất cũng là điều cần thiết để ngành công nghiệp mây tre đan của Việt Nam có thể cải thiện được vị thế của mình trên thị trường quốc tế. Chỉ có như vậy, ngành công nghiệp mây tre đan của Việt Nam mới có thể phát triển bền vững và đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Để lại bình luận